Mọi người ồn ào kéo nhau vô trong. Thầy Tưkéo chiếc ghế đầu bàn ngồi xuống, trong khi các học trò mạnh ai nay ngồi kháp mọi nơi. Căn phòng khách không lấy gì làm rộng cho lắm, nên mọi người ngồi chật ních. Đợi cho ai nấy yên chỗ, thầy Tư hỏi San:
– Sao, vụ xuất sư cho thầy Hoa tới đâu rồi mà thầy về sớm quá vậy. Tôi tưửng phải tới ngày mai thầy mới về được San hắng giọng, nói:
– Dạ, thưa thầy mọi việc đều xong rồi. Vì sáng mai con hết phép nên phải về sớm một chút để trình diện đơn vị cho đúng giờ.
– Thầy thấy thầy Hoa thế nào?
– Dạ, thầyHoa giỏi lắm, con nghĩ cô ấy biết được nhiều phép thllật lạ lùngmà hình như chưa bao giờ con được nghe qua.
Thầy Tư trầm ngâm.
– Có chuyện đó nữa sao? Tôi biết thầy Mười rất giỏi, nhưng có điều không lý thầy ấy lại tin tưởng thầy Hoa tới . độ đó à Dù sao thì chính thầy phải biết nhiều hưn thầy Hoa mới phải chứ?
– Dạ, thưa không phải con định nói thế. Sự thực thì thầy Hoa cũng chẳng học được bao nhiêu phép thuật của thầy Mười, nhưng mấy năm nay, chính thầy Hoa được thầy Mười tin tưởnglnhờ sao chép kinh sách, nên thầy Hoa mới biết nhiều như vậy.
Thầy Tư gật gù:
– À thì ra thế, nhưng biết là một chuyện, còn luyện được hay không lại là một chuyện khác.
– Nhưng con lại nghĩ khác, thầy Hoa rất thông minh, lại được thầy Mười rất tin tưửng. Bởi vậy thầy Hoa đã biết được nhiều điều con không ngừ tới. Thí dụ như phép ếm bằng hình nhơn, thầy Hoa đã dùng hình nhơn trị bệnh trước mặt con mà không thèm đụng tới con bệnh nằm trong Thầy Tư giật mình, ông không ngờ phép này mà cả Hoa cũngbiết được. Điều này làm ông sửng sốt. Ông cố tình hỏi tới để biết xem khả năng nàng tới đâu.
– Thầy ấy trị bệnh bằng hình nhơn như thế nào?
– Dạ, thầy ấy cầm một con hình nhưn không biết bằng chất gì, viết tên tuổi con bệnh vô đó, niệm chú, vẽ bùa. Con bệnh ở phòng bên, cứ mỗi lần thầy ấy thổi vô hình nhơn là nó dẫy dụa chịu không nổi, than khóc ầm trời. Xin tha.
Thầy Tư nghe San nói tần ngầm, ông nói nho nhỏ nhưng mọi người đều nghe rõ.
– Ai ngờ học trò thầy Mười mà cũng biết được cà những phép thuật siêu đẳng nhưvậy. Nếu đúng như thầy nói; thầy Hoa không những trị bệnh được, mà còn cớ thể dùng phép đó giết người xa hàng vạn dậm nữa. Ghê gớm thực.
San bàng hoàng hỏi:
– Thưa thầy, phép trị bệnh đó có liên quan gì, tới giết được người ở xa đâu.
Im lặng một lúc lâu, thầy Tư mới nói:
– Hồi đó chính Sư Ông cũng biết phép thuật này, nhưng không truyền cho tôi, vì ngài nói phép này ác lấm,người thầy có thể dùng nó trị bệnh, nhưng cũng có thể dùng nó để đối phó với những địch thủ ở xa. Con hình nhơn đó được luyện rất công phu, chỉ cầnviết tên tuổi hoặc cẩm một ít tóc, hoặc cuốn nó lại bằng miếng vải áo quần gì đó của địch thủ là kể như người đó tới số rồi. Những thầy bà khác không có cách gì cứu được nạn nhân, trừ khi tiêu huỷ được con hình nhơn đó mới giữ đưực mạng sống nạn nhân thôi. Tuy nhiên, đụng tới con hình nhơn đó cũng không phải dê đâu, lạng quạng mang họa sát thân đó. Tôi không ngờ Sư Tổ lại tryền phép thuật này cho thầy Mười, để bây giờ ông ấy truyền lại cho cả đệ tử chưa hề lên núi bái Tổ lần nào như thầy Hoa thì cũng liều thực.
San gật gù, nói:
– Hèn gì con thấy thầy Hoa bóp con hình nhơn ở đâu thì bệnh nhơn la đau ở đó. Nếu như vậy, thầy ấy lấy cây kim thọc ngay tim con hình nhơn thì kể như bệnh nhơn chết chắc.
Thầy Tư gật đầu, đồng ý:
– Đúng rồi. Đó chính là phép thư người độc địa nhất của môn phái. Tôi tưởng tới đời Sư Ông là thất truyền rồi, ai ngờ bây giừ nó lại xuất hiện ở đây, do một học trò nhỏ tuổi như thầy Hoa xử dụng.
– Thầy có nghĩ là còn nhiều người khác biết nữa không?
– Tôi hy vọng thầy Mười không truyền phép ẩu tả tới mức đó. Chỉ một mình thầy Hoa biết được cũng đủ chết nhiều người rồi, nói chi ai cũng biết thì thiên hạ tới thời đại loạn rồi.
San tần ngần hỏi:
– Thưa thầy, không lý phép này lại còn nguy hiển hơn Thiên Linh Cái nữa hay sao?
Thầy Tư lắc đầu:
– Không hẳn nhưvậy, nhưng Thiên Linh Cái rất khó luyện, không phải ai biết cách luyện cũng có cơ hội luyện được Hơn nữa với Thiên Linh Cái, mình còn có phép trừ. Nhữngngười cao tay ấn không coi Thiên Linh Cái vào đâu. Họ có thể giết chết con Thiên Linh Cái đó cũng không khó khăn lắm. Nhưng với loại hình nhơn này thì chịu thua. Bởi vì nó vô chi vô giác. Tuy nhiên, Thiên Linh Cái mà luyện cho nó thành tinh rồi thì cũng ít ai trừ đưực nó lắm.
San buột miệng:
– Thầy Mười đã điều khiển được Thiên Linh Cái bò ra ngoài rồi.
Thầy Tư nhẩy nhổn như người ngồi phải lửa, ơng hớt hải nói:
– Thầy nói cái gì?
– Con nghe thầy Hoa nói; Thầy Mười đã kêu được con Thiên Linh Cái bò lên khỏi bình rượu ngâm nó rồi, như vậy có phải nó đã thành tinh không?
Thầy Tư thờ thẫn trông thấy, mặt ông tự nhiên co lại thật khổ não. Ông nói như rên rỉ:
– Tai họa, tai họa. Đúng là nó đã thành tinh rồi còn gì nữa. Hồi nó còn nằm yên trong bình rượu, thầy Mười chỉ có thể sai khiến linh hồn nó đi giết người. Tuy nhiên, gặp những ai nặng bóng vía, đàn bà có tháng, hay vật gì linh thiêng trong bàn thờ, chùa chiền, con nl;ên Linh Cái không dámbén mảng tới. Bây giừ nó thành tinh rồi, những thứ đó không còn nghĩa lý gì nữa. Nó không còn ở thế giới
vô hình nữa mà trở thành vật thể hẳn hoi. Nó đã đi từ thế giới siêu linh vô hình tới vật thể hữu hình bằng xương bằng thịt. Nếu đúng nhưvậy, thầy Mười có thể sai nó tới đây bóp chết hết đàn rắn Trun của mình nội trong một khắc.
Từ nãy tới giờ đám đệ tử thầy Tư ngồi yên nghe San và thầy Tư nói chuyện, không ai dám nói câu nào. Bỗng Oanh xen vô hỏi thầy Tư.
– Thưa thầy, nhưvậy thầy Mười có thể kêu con Thiên Linh Cái trong hũ rượu đó đi ngời ngời tới nhà mình à?
Thầy Tư gật đầu:
– Đúng như vậy. Nó đi như một thằng bé còn sống, nhưng chỉ có đìêu chân không chạn đất và đi nhanh như tên bắn. Khi tới gần, mình có thể sờvào nó được như người còn sống.
San mỉm cười nhìn Oanh.
– Như vậy có nghĩa là nó cũng có thể nắm được chân mình kéo đi như chơi.
Nhiều tiếng rú nho nhỏ của các đệ tử nhát gan nổi lên ngay sau khi nghe San nói, nhiều người đã co chân lên ghế. Oanh nhẩy lại ngồi bên cạnh San. Một ngọn gió thực lạnh từ ngoài thổi vào làm mọi người rùng mình, ngoài trời tối đen như mực. Ngọn đèn măng xông chao đi chao lại, ánh sáng trong nhà rung rinh chập chờn ma quái. Con chó Mực bỗng sủa vang, rồi kêu ư ử. Một bóng đen vừa lướt qua cửa sổ Mọi người nháo nhác, nhiều đệ tử xanh mặt. San và thầy Tư không ai bảo ai xông ra ngoài. Có tiếng phành phạch nghe như gà đập cánh.
Hà ngồi sát vô Tam run lẩy bẩy, Tam cũng đã được xuất sư từ lâu nhưng chàng lười luyện tập nên chẳng đi tới đâu. Thầy Tư có vẻ thất vọng về chàng ra mặt, Tam được miễn quân dịch vì tay có tật; hễ chàng cứlàm việc gì tréo ra đằng sau là khớp xương bả vai lìa ra ngay. Cánh tay lúc đó lủng lẳng như treo vào mình bằng những sợi gân và da, không còn cừ động được nữa. Chàng bị tật này ngay từ hồi còn nhỏ và được thầy Tư chữa trị tới nay. Tuy nhiên, chỉ khỏi đau mỗi lần xương bị trật ra sau thôi, chứ không hết hẳn tật Và từđó chàng theo thầy Tưluyện tập luôn. Trong môn phái, Tam là người theo thầy Tư học đạo lâu nhất. Mặc dù thất vọng vì sự lười biếngcủa Tam, nhưng vì chàng tu luyện đã lâu mà hiền lành và lại sống kề cận bên nhà nên thầy Tư cũng rất qúi chàng. Mỗi khi có chuyện gì nhờ vả là thầy Tư lại kêu Tam qua sai bảo. Riết rồi tình thầy trò trở nên như người trong nhà và Tam kêu thầy Tư bằng Chú Tư như người cháu ruột vậy. Hơn một tưần lễ nay, từ ngày thầy Mười ở cầu Bình Lợi nhờ San xuất sư cho Hoa làm Tam muốn nổi điên lên. Đối với San, dù sao cũng là đàn em chàng, ngày mà San luyện thành phép sai khiến bầy rấn Trun cũng không làm Tam mất mặt như ngày hôm nay. Ai lại không biết chàng như vị trưởng tràng của môn phái. Bây giờ bị San qua mặt một cách đau đớn. Bởi vậy, mấy hôm nay chàng cố nấn ná ở lại võ đường hàng ngày luyện tập ráo riết, tuy nhiên thân hình cục mịch và khả năng văn hóa thật yếu kém làm Tam rất khó xoay trở. Những chữ bùa chàng có thể vẽ mãi cũng quen, nhưng những bài kinh, câu chú dài cả trang giấy, Tam phải học thuộc lòng thật khổ sở. Hồi đó chàng chưa học hết lớp tư đã bỏ học đi hoang rồi. Bây giờ đánh vần từng chữ thật khó khăn. Sáng nay, nghe tin chẳng những San đưực thầy Mười nhờ xuất sư cho Hoa, mà còn cặp bồ với nàng, đồng thừi thầy Mười lại còn cho San cả dây cà tha 36 mắt bằng vàng ròng nữa. Tam tức lắm, đáng nhẽ cái duyên này phải là của chàng chứ không phải San. Cứ anh trạng này, ngày nào đó, thầy Tư khuất bóng, San sẽ lên làm chưởng môn chứ không phải chàng. Cũng vì vậy mà Tam nghĩ ra một cách, chàng mang những câu chú và kinh kệ nhờ Hà đọc cho chàng nhẩm theo. Mặc dù Tam biết rằng làm như vậy Thầy Tưbiết là có chuyện, vì Hà chưa được điểm đạo học Võ Thần chứđừng nói gì tới mức được rớ vô những kinh chú bùa ngải ấy. Hơn thế nữa, Hà lại làm nghề bán “bia ôm”, một nghề không hơn mấy cô gái chơi bời bao nhiêu. Có lẽ cũng vì lý do này mà Hà dù theo thầy Tư học đã lâu mà không được điểm đạo. Hà cũng biết vậy, nhưng tính nàng rất lẳng lơvà thích sài tiền nữa, nên không sao bỏ được những quán rượu này, nơi mà nàng hái ra tiền. Sáng nay khi Tam đưa cho nàng cuốn sách bảo đọc cho chàng học, Hà mừng rơn. Nàng không ngờ bao nhiêu năm theo thầy Tư luyện tập mà chưa được thầy để ý tới, vậy mà sáng nay dưng không Tam đem tới cho nàng tất cả những gì Hà ao ước từ lâu, dù có tiền cũng không thế nào mua được. Hà biết rằng qui luật tập võ là thừi gian thứ thách cho thầy Tư trắc nghiệm tính tình đệ tử. Nàng đã nhìn thấy bị rớt ngay từ vòng đầu vì tính nết lẳng lơ và háo thắng của mình. Sở dĩ nàng không bỏ ngang cũng chỉ vì những tay anh chị, ma cô ở vùng này biết nàng là đệ tử của võ đường Nguyễn Lành mà ldlông dám đụng tới Hà. Và bây giừ dịp may tựnhiên ào tới, nhất định là nàng phải giúp Tam hết mình rồi. Cả buổi sáng hôm nay Hà đã dùng đủ mánh lới mồi chài Tam, làm sao anh chàng khù khờ này thoát khỏi vòng tay nàng. Hà đã ngồi hẳn vào lòng Tam đọc từng câu kinh cho anh chàng học lại, lẽ dĩ nhiên với đầu óc của Hà và Tam, nàng phải thuộc lòng trước Tam khi anh chàng n(ly nhớ được câu chú đó. Trong lúc học như thế, làm sao Tam cầm lòng được khi Hà cố tình cọ sát da thịt mơn mởn của nàng vào thân thể Tam. Anh chàng đã cúi xuống vùng da thịt trắng ngần của nàng cả buổi sáng nay.