– Nếu bảy vị đích thân tỷ thí với bần đạo, cho dù thắng được lần nữa chẳng qua cũng là lấy nhiều thắng ít, cũng chẳng có gì vinh quang. Để khi bần đạo đem bản lĩnh một đời dạy một người, bảy vị cũng đem tuyệt nghệ dạy một người, cho hai người bọn họ một chọi một đấu với nhau, lúc bấy giờ nếu đệ tử của bần đạo thắng thì thất hiệp các vị phải tâm phục khẩu phục.
Kha Trấn ác hào khí trào lên trong lồng ngực, dằn mạnh thiết trượng xuống đất một cái kêu lên:
– Hay lắm, chúng ta đánh cuộc nào.
Toàn Kim Phát nói:
– Nếu lúc ấy Lý thị đã bị Đoàn Thiên Đức hại chết thì làm sao?
Khưu Xử Cơ nói:
– Đó cũng là đánh cuộc với số phận. Trời không muốn cho chúng ta thắng thì còn nói gì nữa?.
Hàn Bảo Câu nói:
– Được, cứu người cô độc, thương kẻ lẻ loi vốn là việc người hiệp nghĩa phải làm, cứ cho là không thắng được ngươi thì bọn ta cũng làm được một chuyện tốt.
Khưu Xử Cơ giơ ngón tay cái lên, lớn tiếng khen ngợi:
– Hàn tam gia nói rất đúng. Bảy vị chịu gánh vác việc giáo dưỡng đứa con côi họ Quách thành người, bần đạo xin thay mặt Quách huynh đã chết lạy tạ.
Nói xong chắp tay vái khắp chung quanh. Chu Thông nói:
– Cách của ngươi không khỏi có chỗ bịp bợm. Bằng vào mấy câu ấy mà bắt bảy anh em bọn ta phải lo lắng cho ngươi suốt mười tám năm à?.
Khưu Xử Cơ biến sắc, ngẩng đầu lên trời cười lớn. Hàn Tiểu Oanh vội hỏi:
– Có gì đáng cười thế?
Khưu Xử Cơ nói:
– Từ lâu ta đã nghe đại danh Giang Nam thất quái, trên giang hồ đều nói thất hiệp giúp người nguy khốn, đúng là anh hùng hào kiệt hành hiệp trượng nghĩa, nào ngờ hôm nay nhìn thấy, hà hà!
Hàn Bảo Câu và Trương A Sinh đồng thanh hỏi:
– Thấy thế nào?
Khưu Xử Cơ nói:
– Đó chỉ là hư danh may mà có được, thấy mặt chẳng bằng nghe danh.
Giang Nam thất quái nổi giận. Hàn Bảo Câu đập tay xuống ván giường một cái, đang định lên tiếng. Khưu Xử Cơ nói:
– Xưa nay bậc đại anh hùng chân hiệp sĩ kết giao với người là liều thân cho bạn, chỉ cần là việc nghĩa phải làm là giao cả tính mạng cho bạn bè, có gì là quá đáng? Chẳng lẽ không từng nghe ngày xưa Kinh Kha. Nhiếp Chính đâu tính toán gì. Chu Gia. Quách Giải phù nguy cứu nạn, giúp người lúc khó khăn cũng chưa từng ra giá gì cả.
Bị dồn cho một chặp. Chu Thông sắc mặt trắng bệch, thầm thấy xấu hổ, lập tức xòe cái quạt ra nói:
– Đạo trưởng nói không sai, huynh đệ biết lỗi rồi. Thất quái chúng tôi gánh vác chuyện đó là phải lắm.
Khưu Xử Cơ đứng lên nói:
– Hôm nay là ngày hai mươi bốn tháng ba, giữa trưa ngày này mười tám năm sau, tất cả chúng ta sẽ gặp nhau ở lầu Túy Tiên, mời khắp anh hùng hảo hán trong thiên hạ tới xem ai là hán tử chân chính.
Rồi phất tay áo một cái, gió mát đầy phòng, lập tức bước ra khỏi cửa.
Hàn Bảo Câu nói:
– Ta phải đuổi theo Đoàn Thiên Đức nếu không y rút cổ rùa đen lại, không bóng không hình, làm sao mà động thủ cước. Trong thất quái chỉ có một mình y không bị thương, lập tức ra cửa lên ngựa cưỡi con danh câu Truy phong hoàng đuổi theo Đoàn Thiên Đức và Lý thị. Chu Thông vội kêu Tam đệ, tam đệ, ngươi không nhận ra được họ đâu!
Nhưng Hàn Bảo Câu tính rất nóng nảy. Truy phong hoàng lại là con ngựa như tên gọi, quả nhiên phóng đi như gió, trong chớp mắt đã xa rồi.
Đoàn Thiên Đức kéo Lý Bình chạy mau ra ngoài, quay dầu thấy trong chùa không ai đuổi theo mới hơi yên tâm, chạy tới ven sông thấy một chiếc thuyền nhỏ bên nhảy lên đầu thuyền, vung đao quát thuyền phu rời bến. Giang Nam là vùng sông nước, sông ngòi giăng mắc như mạng nhện, thuyền nhỏ là vật thay chân rất thông thường, cũng như lừa ngựa và xe ở phương Bắc cho nên trước nay có câu Người Bắc cưỡi ngựa, người Nam đi thuyền. Thuyền phu thấy một võ quan hung ác đâu dám chậm chạp, lập tức nhổ neo Khua chèo đưa thuyền ra khỏi thành.
Đoàn Thiên Đức nghĩ thầm: Mình gây ra đại họa như thế, nếu trở về Lâm An, người khác thì không nói chứ ông bác mình nhất định sẽ lấy mạng mình, chỉ còn cách lên biên giới phía Bắc tránh nạn cái đã. Tốt nhất là lão đạo sĩ giặc cướp ấy và bọn Giang Nam thất quái đều trọng thương chết hết, ông bác mình lại tức giận chết luôn, lúc ấy sẽ trở về làm quan cũng không muộn.
Lúc ấy bèn giục thuyền phu đi thẳng lên phía bắc. Con ngựa của Hàn Bảo Câu tuy đi nhanh, nhưng trên đường cứ phải dò đông hỏi tây, tự nhiên là không thể tìm được y.
Đoàn Thiên Đức liên tiếp đổi thuyền mấy lần, lại bỏ y phục võ quan, bắt Lý thị cũng thay đổi quần áo Sau hơn mười ngày qua sông tới Dương Châu, vào khách điếm nghỉ lại, nghĩ có chỗ yên thân đang định ngụ lại, nói ra cũng vừa khéo, chợt nghe có người hỏi thăm chủ khách điếm về tung tích của mình. Đoàn Thiên Đức cả sợ, nhìn ra khe cửa thấy một hán tử béo lùn tướng mạo xấu xí và một thiếu nữ xinh đẹp, cùng nói giọng Gia Hưng, nghĩ là nhân vật trong Giang Nam thất quái, may mà chưởng quỹ không thạo ngôn ngữ của hai người lắm, đôi bên nhất thời không hiểu nhau, y bên lập tức kéo Lý Bình mở cửa sau bỏ chạy, thuê thuyền đi tiếp.
Y không dám chần chừ, xuôi theo Vận Hà lên phía Bắc, đi một mạch tới dịch trạm Lợi Quốc cạnh hồ Huy Sơn trong địa giới Sơn Đông.
Lý Bình tay thô bàn chân to, dung mạo vốn xấu, lúc ấy bụng chửa vượt mặt, cả ngày kêu khóc mắng chửi. Đoàn Thiên Đức tuy là kẻ hạ lưu nhưng đối với nàng cũng không có ý phi lễ. Hai người hàng ngày đối mặt chỉ đánh nhau chửi nhau, không có lấy một phút yên ổn.
Qua mấy hôm, hán tử béo lùn và thiếu nữ kia lại đuổi tới Đoàn Thiên Đức chỉ muốn ở yên trong phòng, không ngờ Lý Bình biết là có cứu tinh tới, cao giọng gọi lớn. Đoàn Thiên Đức vội lấy khăn bịt chặt miệng nàng, hung dữ đánh nàng một trận. Lý Bình liều mạng cào cấu la thét, tuy chưa bị anh em Hàn Bảo Câu. Hàn Tiểu Oanh phát hiện nhưng cũng vô cùng nguy hiểm.
Đoàn Thiên Đức dắt nàng cùng trốn, vốn là muốn lấy nàng làm con tin, lúc nguy hiểm có thể bắt địch nhân không dám bức bách quá, nhưng tình thế trước mắt đã thay đổi, thầm nghĩ một mình dễ bỏ trốn hơn mang một người đàn bà kè kè bên cạnh như thế này quả thật là mầm mống tai họa rất lớn, chẳng bằng một đao chém chết luôn cho đỡ vướng víu chân tay, đợi anh em họ Hàn đi xa rồi lập tức rút đao ra.
Lý Bình lúc nào cũng chờ cơ hội định liều mạng cùng chết với kẻ thù giết chồng, nhưng cứ đến tối đi ngủ lại bị y trói chân tay, không thể cử động, lúc ấy thấy y mắt lộ hung quang, lầm rầm khấn khứa: Khiếu ca. Khiếu ca, xin âm hồn chàng giúp đỡ thiếp giết chết thằng ác tặc này. Thiếp sẽ tới cùng chàng tương hội. Lúc ấy lập tức rút thanh đoản kiếm mà Khưu Xử Cơ tặng cho, thanh đoản kiếm này nàng giấu trong người, chưa bị Đoàn Thiên Đức khám xét cướp mất.
Đoàn Thiên Đức cười nhạt một tiếng vung đao chém thẳng xuống. Lý Bình đã quyết ý liều chết, không hề sợ hãi đem hết sức bình sinh nhảy xổ vào y. Đoàn Thiên Đức chỉ thấy hơi lạnh xông thẳng vào giữa mặt, rút đao gạt một cái, định đánh rơi thanh đoản kiếm, nào ngờ thanh đoản kiếm quá sắc bén, chỉ nghe leng keng một tiếng, thanh yêu đao đã bị tiện đứt một nửa rơi xuống đất, mũi kiếm đã đâm thẳng vào bụng mình. Đoàn Thiên Đức cả sợ nhảy lùi về phía sau, soạt một tiếng, vạt áo phía trước đã bị rọc rách một đường dài từ ngực tới bụng, một vệt máu đỏ hiện ra, chỉ cần Lý thị khỏe mạnh hơn một chút thì mũi kiếm đã đâm thủng ngực gây ra tai họa. Y qua cơn kinh hoàng, vội nhấc cái ghế lên chống đỡ, quát lớn:
– Mau rút đao lại, ta không giết ngươi nữa.
Lý Bình lúc ấy cũng đã tay mềm chân nhũn, toàn thân vô lực, đồng thời cái thai trong bụng lại quẫy đạp, không thể tiếp tục liều mạng với y ngồi xuống đất thở dốc một hồi, tay vẫn nắm chặt thanh đoản kiếm không buông.
Đoàn Thiên Đức sợ bọn Hàn Bảo Câu quay trở lại nếu một mình chạy trốn lại sợ Lý Bình tiết lộ dấu vết của mình cho kẻ đối đầu, vội ép nàng lên thuyền đi tiếp, vẫn theo Vận Hà lên phía bắc, qua Lâm Thanh. Đức Châu vào địa giới Hà Bắc.
Mỗi khi lên bộ tạm nghỉ, bất kể ẩn náu thế nào thì không bao lâu lại có người tìm tới, về sau ngoài hán tử béo lùn và cô gái còn có thêm một người mù cầm thiết trượng, nhưng rốt lại ba người đất, không nhận ra y, đều là y ở chỗ sáng mà đối phưng ở chỗ tối, đều có thể kịp thời trốn tránh, cũng là giữa nguy hiểm mà thoát thân.
Không bao lâu lại thêm một chuyện rất đau đầu là Lý Bình chợt lên cơn điên, trong khách điếm hay trên đường đi thỉnh thoảng lại lớn tiếng nói bậy bạ khiến người ta chú ý, có lúc thì xõa tóc xé áo, đủ trò kỳ quái. Đoàn Thiên Đức lúc đầu còn cho rằng nàng gặp biến cố lớn nên thần trí không được tĩnh táo, nhưng qua mấy hôm đột nhiên tĩnh ngộ, té ra là nàng sợ người đuổi theo bị mất manh mối nên cố ý lưu lại dấu vết, nếu cứ thế mà muốn thoát khỏi sự truy tìm của địch nhân thì càng khó khăn. Lúc bấy giờ mùa hè dần qua, gió thu vừa nổi.
Đoàn Thiên Đức trốn tránh những người theo đuổi đã lên tới phía Bắc, tiền bạc mang theo cũng đã gần hết mà kẻ thù vẫn đuổi riết không tha, không khỏi tự oán trách. Lúc đầu lão tử làm quan ở Hàng Châu, thịt béo rượu ngon, tiền bạc như đất, khoái lạc biết bao, chẳng có nguyên cớ gì lại đi tham tiền của người ta, tới thôn Ngưu Gia giết thằng cường đạo chồng mụ ác phụ này, để bây giờ phải chịu tội sống. Y mấy lần muốn bỏ rơi Lý Bình, một mình lén lút trốn đi nhưng nghĩ lại thì lại không dám, ám toán hay làm hại nàng thì chưa lần nào thành công.
Đạo bùa hộ thân này đã trở thành một cục nợ bỏ không được, giết không được, lại còn phải canh cánh đề phòng nàng trả thù cho chồng, đúng là muôn phần khổ não.
Một hôm, tới Yên Kinh đô thành nước Kim. Đoàn Thiên Đức nghĩ rằng kinh sư Đại Kim đất rộng người đông, tìm một chỗ vắng vẻ yên tĩnh nương náu, chỉ cần chờ thời cơ giết con ác phụ này thì kẻ thù cho dù có bản lĩnh lớn bằng trời cũng không tìm được mình.
Y cảm thấy tính toán như thế là phải, không ngờ vừa tới cổng thành, trong thành có một đội quân Kim kéo ra, không hỏi han gì, bắt luôn hai người, bắt phải gánh vác. Lý Bình thân thể thấp lùn, quân Kim bắt nàng gánh nhẹ hơn. Đoàn Thiên Đức trên vai phải gánh hai cái thúng nặng hàng trăm cân, khiến y luôn miệng kêu khổ.
Đội quân Kim này là tùy tùng theo một viên quan lên Bắc. Viên quan này là sứ giả được phái lên bộ tộc Mông Cổ tuyên cáo sắc lệnh của vua Kim. Đám quân Kim đi theo hộ tống bắt bừa bách tính người Hán làm phu mang vác hành lý lương thực. Đoàn Thiên Đức cãi lại mấy câu, roi da của quân Kim đã đập bừa lên đầu lên mặt. Tình hình này y cũng đã trải qua rất nhiều, không có gì lạ lùng, chỉ có điều trước nay là roi của y đánh lên đầu bách tính, hôm nay thì là quân Kim lấy roi da đập lên đầu mình mà thôi. Roi thì không khác nhau lắm, nhưng đầu và mặt thì khác hẳn.
Lúc ấy Lý Bình bụng càng ngày càng to, gánh gồng đi bộ, quả thật là mệt nhọc muốn chết, nhưng nàng quyết ý đích thân giết kẻ thù, suốt đường đi cố che giấu sự mệt mỏi, không để quân Kim phát hiện chỗ sơ hở, may là nàng từ nhỏ làm nghề nông, đã quen vất vả, thân thể rất khỏe mạnh nên lúc ấy đem hết sức lực cố gắng chi trì suốt mấy mươi ngày, lặn lội trên sa mạc lạnh giá.
Lúc bấy giờ tuy mới tháng mười nhưng phương Bắc rất giá lạnh, một hôm bông tuyết bay đầy trời, cát vàng mênh mông không có chỗ nào tránh gió tuyết Hơn ba trăm người xếp thành một hàng đi trong hoang mạc bằng phẳng mênh mông. Đang đi chợt nghe từ phía xa có tiếng la thét vẳng tới, trong cát bụi mịt mù chỉ thấy hàng vạn con ngựa phi mau, vô số binh mã rầm rập xông tới.
Mọi người đang kinh hoàng thì đại đội binh mã đã tràn tới, té ra là một toán quân bại trận. Đám quân sĩ này mặc áo da cừu, cũng không biết là bộ tộc nào trên sa mạc phía Bắc, chỉ thấy họ hàng ngũ rối loạn, quân sĩ ném cưng vứt giáo tranh nhau chạy trước, người nào trên mặt cũng đầy vẻ kinh hoàng. Có người không có ngựa cắm đầu chạy bộ, bị những người cưỡi ngựa phía sau tràn lên, trong chớp mắt đã ngã lăn dưới vó ngựa.
Quan quân nước Kim thấy đám quân bại trận rất đông, lập tức bỏ chạy tứ tán. Lý Bình vốn cùng một chỗ với Đoàn Thiên Đức, nhưng đám bại binh như cơn sóng triều tràn qua rồi, trong lúc hỗn loạn không biết Đoàn Thiên Đức đã đi đâu. Lý Bình ném quang gánh xuống cố chết chạy tới những chỗ ít người, may mà mọi người chỉ muốn thoát thân nên không ai làm hại nàng.
Nàng chạy một hồi, chỉ thấy bụng đau quặn từng cơn không chi trì được nữa, nằm phục xuống một gò cát ngất đi. Rất lâu sau nàng mới dần dần tĩnh lại, trong lúc mơ mơ màng màng dường như nghe thấy tiếng trẻ con khóc. Nàng vẫn còn mơ mơ hồ hồ, không biết là đã xuống địa phủ hay còn ở dương gian, nhưng tiếng trẻ khóc càng lúc càng lớn, nàng vừa cử động, chợt thấy dưới đũng quần có một vật âm ấm. Lúc ấy đã là nửa đêm, tuyết lớn vừa ngừng rơi. Một vầng trăng tròn trong mây từ từ ló dạng, nàng đột nhiên hiểu ra, không kìm được đau đớn bật tiếng khóc thất thanh, té ra cái thai trong bụng đã ra đời trong cơn hoạn nạn lưu ly.
Nàng vội vàng ngồi dậy bế đứa bé lên, thấy là một đứa con trai, mừng rỡ rơi nước mắt, lúc ấy bèn cắn đứt cuống rốn cho nó rồi bế vào lòng. Dưới ánh trăng chỉ thấy đứa bé mày rậm mắt to, tiếng khóc rất lớn, mặt mũi giống hệt người chồng đã chết. Nàng sinh con trên đất tuyết, vốn là phải chết, nhưng vừa thấy đứa con không biết vì sao lại nảy sinh thêm một phần khí lực, bò tới một cái hố cạn cạnh gò cát để tránh gió rét, ngắm nghía đứa bé, nhớ lại người chồng đã mất, bất giác vui mừng chua xót lẫn lộn.
Núp dưới hố cát qua một đêm, đến giữa trưa hôm sau thấy bốn bề yên lắng bèn đánh bạo lần ra, chỉ thấy trên mặt đất đầy xác người chết ngựa chết, trong cát vàng tuyết trắng đầy những đao thương cung tên, quay nhìn bốn phía hoàn toàn không có một người sống.
Nàng tìm được một ít lương khô trong túi da trên lưng xác chết, lại tìm được trên xác chết đá lửa và dao đánh lửa bèn cắt một miếng thịt ngựa nướng ăn. Kế lột áo da của xác chết, lấy một cái bọc đứa bé, mình mặc một cái. May là khí trời rất lạnh, xác chết không bị thối rữa, nàng lấy thịt ngựa làm lương ăn. ở lại trên chiến trường mười mấy hôm, sức khỏe dần dần hồi phục, bèn bế con từng bước từng bước đi về phía đông. Lúc ấy trong lòng bế đứa con ruột, gã Đoàn Thiên Đức mà nàng căm hận thấu xương không biết đã đi đâu, nỗi căm hận đau xót vốn đầy lòng lập tức biến thành nỗi lòng dịu dàng từ ái, gió cát trong sa mạc rát như dao cắt, nàng chỉ cần không quét vào mặt con, còn mình thì không hề thấy khổ.
Đi được vài ngày, dưới mặt đất cây cỏ đã dần dần nhiều hơn, xế chiều hôm ấy chợt thấy phía trước có hai kỵ mã phóng tới. Người cưỡi ngựa nhìn thấy dáng vẻ của nàng bèn dừng ngựa hỏi han. Nàng vừa nói vừa ra hiệu, kể lại việc gặp bạo binh rồi sinh con trong tuyết. Hai người ấy là mục dân Mông Cổ, tuy không hiểu được lời nàng nhưng người Mông Cổ vốn hiếu khách, thương người nghèo cứu kẻ khổ, thấy mẹ con nàng đáng thương bèn mời nàng tới lều Mông Cổ ăn một bữa ngon, ngủ một giấc dài. Người Mông Cổ sinh sống bằng nghề du mục, xua súc vật đi khắp nơi tìm tới những chỗ có cỏ và nước chứ không định cư, dùng da và lông súc vật may thành lều vải che gió tuyết tức là lều Mông Cổ. Lúc toán mục dân ấy lên đường thì để lại cho nàng bốn con dê nhỏ.
Lý Bình cay đắng vất vả nuôi nấng con thơ, ở lại sa mạc. Nàng dùng cành cây dựng một gian lều tranh cạnh chỗ có cỏ có nước, nuôi dưỡng súc vật, lại dệt lông dê thành nệm đổi cho mục dân lấy lương thực.
Thắm thoát vài năm, đứa con đã được sáu tuổi. Lý Bình theo di ngôn của chồng, đặt tên nó là Quách Tĩnh. Đứa nhỏ này học nói rất chậm, đầu óc tối tăm, đến bốn tuổi mới biết nói, được cái gân cốt mạnh mẽ, đã có thể ra thảo nguyên chăn dắt dê bò. Hai mẹ con nương tựa vào nhau mà sống, chắt chiu làm lụng, súc vật dần dần nhiều hơn, đời sống cũng khá lên, lại đều học nói tiếng Mông Cổ, chỉ là khi mẹ con trò chuyện với nhau thì vẫn nói tiếng quê xưa ở Lâm An. Lý Bình thấy con bập bẹ những là con dê, con ngựa, toàn giọng Lâm An quê mình, thỉnh thoảng lại chua xót nghĩ thầm cha của con là hảo hán đất Sơn Đông, con cũng phải biết nói tiếng Sơn Đông mới phải. Chỉ đáng tiếc là ta theo cha con không được bao lâu, chưa từng học nói tiếng Sơn Đông nên không sao dạy cho con được.
Năm ấy đang lúc tháng mười, khí trời lạnh dần. Quách Tĩnh cưởi một con ngựa nhỏ, dắt theo con chó đi chăn dê. Đến trưa, trên không chợt có một con hắc điêu bay tới sà xuống bầy dê, một con dê nhỏ hoảng sợ chạy mau về phía đông.
Quách Tĩnh la thét ầm ĩ, nhưng con dê nhỏ ấy cứ cắm đầu bỏ chạy.
Nó vội vàng lên ngựa đuổi theo, chạy một mạch bảy tám dặm mới bắt lại được, đang định dắt về chợt nghe phía trước có tiếng ầm ầm vẳng lại. Quách Tĩnh giật mình, nó còn nhỏ nên không biết là chuyện gì, cứ nghĩ có lẽ là sấm sét, chỉ nghe tiếng sét rền càng lúc càng to. Qua một lúc, lại nghe trong tiếng ầm ầm có xen tiếng người ngựa huyên náo.
Nó từ trước tới nay chưa từng nghe thấy âm thanh như thế, trong lòng run sợ, vội dắt ngựa và dê chạy lên một ngọn núi đất, núp vào một bụi cây rậm. ẩn thân xong bèn thò đầu ra nhìn.
Chỉ thấy xa xa bụi bay mịt trời, vô số quân mã phóng mau tới, người đi đầu phát hiệu lệnh, quân mã bày thành trận thế, phía đông một đội, phía tây một đội không biết là bao nhiêu người. Binh sĩ có người trên đầu buộc khăn trắng, có người cắm lông chim ngũ sắc. Quách Tĩnh lúc ấy không sợ sệt nửa mà lại thấy rất thích thú.
Lại qua một hồi, chợt nghe cách đó vài dặm bên trái vang lên tiếng tù và, mấy đội quân mã rầm rập xông tới, người dẫn đầu là một thiếu niên cao gầy, khoác áo choàng đỏ, giơ cao trường đao xông lên trước. Binh mã đôi bên xông tới sát nhau, người reo ngựa hí ầm ầm. Đội quân tấn công nhân số rất ít, không bao lâu đã không chống nổi lui lại, phía sau đại có viện binh kéo tới, tiếng reo xung sát vang trời. Mắt thấy đội binh mã tấn công lại chi trì không được, chợt mấy chục tiếng tù và cùng vang lên, trống đánh ầm ầm, đội quân tấn công lớn tiếng reo hò:
– Đại hãn Thiết Mộc Chân tới rồi. Đại hãn tới rồi!
Quân sĩ đôi bên vẫn không ngừng đánh nhau, nhưng đều ngoái đầu nhìn về phía đông.
Quách Tĩnh nhìn theo ánh mắt mọi người, chỉ thấy trong đám bụi mịt trời, một đội quân mã xông mau tới, giương cao một ngọn sào dài, trên treo mấy chùm lông trắng. Tiếng reo hò từ xa dần dần tới gần, binh mã bên tấn công dũng khí tăng lên, hàng trận của đội quân tới trước lập tức tan vỡ. Ngọn sào dài tiến thẳng lên gò đất. Quách Tĩnh vội rúc vào bụi cây hai con mắt nhỏ lóng lánh vẫn nhìn ra bên ngoài, chỉ thấy một hán tử trung niên thân thể cao to thúc ngựa phóng lên núi đất. Y đầu đội mũ sắt, dưới cằm có một chòm râu màu xám, hai mắt vừa chuyển động, ánh mắt sáng quắc quét khắp chung quanh. Quách Tĩnh không biết y chính là tù trường Thiết Mộc Chân của bộ lạc Mông Cổ, mà cho dù có biết cũng không hiểu Đại hãn là gì.
Thiết Mộc Chân ngồi trên ngựa chăm chú nhìn chiến cuộc dưới núi, bên cạnh có hơn mười kỵ sĩ tùy tùng. Qua một lúc thiếu niên khoác áo choàng đỏ phóng ngựa lên núi kêu lên:
– Phụ vương, quân địch quá đông, chúng ta lui thôi!
Thiết Mộc Chân lúc ấy đã thấy rõ tình hình đôi bên, hạ giọng nói:
– Ngươi đem quân lui về phía đông đi? Y mắt nhìn binh mã đôi bên giao chiến, miệng ra lệnh:
– Mộc Hoa Lê, ngươi cùng nhị vương tử đem quân lui về phía tây. Bác Nhĩ Truật, ngươi cùng Xích Lão Ôn mang quân lui về phía bắc. Hốt Tất Lai, ngươi cùng Tốc Bất Đài mang quân lui về phía nam. Lúc nào thấy ở đây giương cờ đại độc, thổi tù và thì nhất tề quay lại xung sát.
Các tướng đồng thanh vâng dạ, xuống núi suất lĩnh bộ thuộc, trong chớp mắt quân Mông Cổ đã lui ra bốn phía.
Quân địch đồng thanh hò reo, nhìn thấy ngọn cờ đại độc treo lông trắng của Thiết Mộc Chân vẫn còn trên núi, bốn phía đều kêu ầm lên:
– Bắt sống Thiết Mộc Chân, bắt sống Thiết Mộc Chân!
Rất nhiều quân mã đua nhau xông lên núi đất, không nhìn ngó gì tới bốn toán quân Mông Cổ vừa rút lui. Hàng vạn con ngựa giẫm lên đất làm bụi bay mù mịt, bốn phía núi đất có một màn sương màu vàng cuồn cuộn bốc lên.
Thiết Mộc Chân đứng trên đỉnh núi đất, thản nhiên bất động, hơn mười quân sĩ tùy tùng giơ thuẫn sắt lên đỡ tên bốn phía bắn tới. Nghĩa đệ của Thiết Mộc Chân là Hốt Đô Hổ cùng mãnh tướng Giả Lặc Mễ suất lãnh ba ngàn tinh binh đóng giữ quanh núi đất tên bắn đao chém, tử thủ không lùi.
Trong bóng đao ánh mâu tiếng thét vang trời. Quách Tĩnh trông vừa thấy phấn khích, vừa thấy sợ hãi.
Kịch chiến qua hơn nửa giờ, mấy vạn quân địch luân phiên đánh lên, ba ngàn tinh binh của Thiết Mộc Chân đã mất hơn bốn trăm người, quân địch cũng bị giết hơn ngàn người. Thiết Mộc chân đưa mắt nhìn xuống chỉ thấy dưới bình nguyên xác quân địch nằm đầy đất, ngựa không người cưỡi từng bầy từng bầy chạy tán loạn, nhưng tên quân địch bắn tới vẫn còn rất mạnh. Nhìn thấy góc Đông bắc quân địch tấn công rất mãnh liệt, quân mình dần dần chống đỡ không được, con thứ ba của Thiết Mộc Chân Oa Khoát Đài rất sốt ruột, vội hỏi:
– Gia gia, có thể phất cờ thổi tù và chưa?
Thiết Mộc Chân hai mắt như chim ưng chằm chằm nhìn xuống quân địch dưới núi không chớp, trầm giọng nói:
– Quân địch còn chưa mệt mỏi!
Lúc ấy, quân địch phía Đông bắc đã điều động tinh binh tới tấn công, giương cao ba ngọn cờ đại độc màu đen, rõ ràng có ba viên đại tướng đốc chiến.
Quân Mông Cổ dần dần núng thế. Giả Lặc Mễ chạy mau lên núi, kêu lên:
– Đại hãn, bọn hài nhi không chống được nữa rồi?
Thiết Mộc Chân tức giận quát:
– Chống không được à? Ngươi vẫn khoe khoang là anh hùng hảo hán gì đó mà?
Giả Lặc Mễ tái mặt giật một thanh đại đao trong tay quân sĩ, quát tháo xông vào trận địch, mở một con đường máu tới trước ngọn cờ hắc độc. Chủ tướng quân địch thấy y hung dữ xông tới bèn kéo cương ngựa lùi lại Giả Lặc Mễ vung tay hạ đao xuống chém ngã ba đại hán giữ cờ rồi vứt đại đao, hai tay ôm ba ngọn cờ đen chạy trở lên, qua khúc ngoặc nhét luôn xuống đất quân địch thấy y dũng mãnh như thế đều hoảng sợ, quân Mông Cổ hò reo ầm ĩ, lại lấp lại chỗ trận thế bị vỡ phía Đông Bắc.
Lại đánh nhau hồi lâu, quân địch phía Tây nam chợt có một viên tướng mặc áo đen xông lên trước, tên bắn không mũi nào sai, liên tiếp bắn ngã mấy mươi quân sĩ Mông Cổ. Hai viên tướng Mông Cổ cầm mâu xông lên đón đánh, bị y vù vù phát ra hai mũi tên ngã ngựa. Thiết Mộc Chân khen ngợi:
– Tiễn pháp hay quá!
Câu nói chưa dứt, viên tướng áo đen ấy đã xông sát tới núi đất, tiếng dây cung bật lên, một mũi tên bắn trúng cổ Thiết Mộc Chân, mũi tiếp theo lại bắn thẳng vào bụng. Thiết Mộc Chân cổ bên phải trúng tên, nhìn thấy lại có mũi nữa bay tới vội giật cương ngựa, con ngựa đột nhiên đứng thẳng lên, mũi tên ấy kình lực mạnh mẽ lạ lùng, cắm ngập luôn vào bụng ngựa không còn thấy đuôi tên, con ngựa ngã vật ra đất. Quân Mông Cổ thấy chủ soái trúng tên ngã ngựa, ai cũng cả kinh thất sắc. Trong tiếng reo hò, quân địch như một làn sóng tràn lên đánh giết.
Oa Khoát Đài nhổ giúp mũi tên ở cổ cha ra, xé luôn vạt áo định băng bó vết thương. Thiết Mộc Chân quát lớn:
– Mặc kệ ta, cứ giữ chắc cửa núi.
Oa Khoát Đài vâng lệnh quay lại, giương cung bắn ngã luôn hai người bên địch. Hốt Đô Hổ ớ phía Tây suất lĩnh quân bản bộ nghênh chiến, đánh nhau đến lúc tên hết thương gãy đành phải rút về. Giả Lặc Mễ mắt đỏ ngầu kêu lên:
– Hốt Đô Hổ, con thỏ nhà ngươi chạy trốn à?
Hốt Đô Hổ cười nói:
– Ai chạy trốn? Ta hết sạch tên rồi.
Thiết Mộc Chân ngồi dưới đất rút trong túi tên một nắm ném qua. Hốt Đô Hổ đón lấy, tiếng cung bật liên tiếp vang lên, một viên tướng dưới ngọn cờ hắc độc đối diện trúng tên ngã ngựa. Hốt Đô Hổ xông mau xuống núi, cướp con ngựa của viên tướng ấy phóng trở lên.
Thiết Mộc Chân khen: