Chiếc tàu gỗ phải đợi đến gần nửa đêm mới nương theo dòng nước thủy triều chảy ra biển để trở về Tắc Bầu Sấu.
Khi Trời sáng rõ, Ba Bình leo lên nóc tàu ngồi gần cột tín hiệu bên trên đài chỉ huy để ngắm nhìn dòng sông quen thuộc. Khi qua khỏi khúc quanh cuối cùng quang cảnh trường cải tạo đã hiện ra với nhiều ngôi nhà gỗ nhỏ có hai mái hình chử V mà anh đã thấy trong đêm mưa hôm trước.
Ngôi nhà văn phòng mới xây, mái ngói đỏ, tường vôi vàng nằm sau chiếc cột cờ cao vút, với lá cờ đỏ lớn đang bay phần phật. Từ cột cờ đó, một hàng cờ lá chuối đủ màu sắc rực rỡ nối tiếp nhau dăng dài.
Nước xuống kiệt, bãi bùn lầy lội lan rộng ra gần giữa sông. Nhưng khác hẳn trước kia, một chiếc cầu tàu nhỏ đã chạy suốt từ bờ sông ra mép nước. Chiếc tháp cao ngất đặt trên chiếc tàu sắt mà anh thấy trong đêm hôm trước chính là chiếc búa đã đóng cừ thi công chiếc tàu này, hôm nay cũng được dăng đầy các chuỗi dây xanh đỏ.
Trên cầu chật ních những người. Tiếng nhạc và trống đệm vang xa trên mặt sông. Khi chiếc tàu quay mũi ghé vào gần đến cầu tàu thì một người trên cầu tiến ra châm lửa vào tràng pháo dài treo dưới tấm biểu ngữ đỏ:” Nhiệt Liệt Chào Đón Quý Khách”
Tiếng pháo bắt đầu nổ giòn giã, khói xanh bay mù mịt.
Ba Bình không thể ngờ ngày mình trở về trường lại được thấy quang cảnh tưng bừng như vậy. Một chiếc cầu tàu hiện lên vững vàng, thẳng tắp dưới dòng biểu ngữ:”Lễ Khánh Thành Cầu Tắc Bầu Sấu”
Con tàu nhẹ nhàng áp mạn vào cầu mới. Đợi cho đoàn khách vào hết văn phòng, Ba Bình mới lên bến, hòa vào đám đông để tìm lại những người bạn cũ. Đang ngở ngàng trước những thay đổi thì một vòng tay từ phía sau xiết chặt lấy vai. Anh quay lại mừng rở nhận ra ngay Ba Tân đang ôm chặc lấy anh, nhấc bổng lên và quay quanh một vòng:
– Trời đất ơi! không ngờ vẫn còn được gặp nhau. Tưởng anh đã vượt biên đi đến đâu rồi chớ!
Ba Bình cười:
– Chút xíu nửa thì cũng đi thôi. Nhưng mình không có số xuất dương. Anh em ở nhà khoẻ không?
– Khoẻ. Kiếm anh hoài mà không biết ở đâu. Anh thấy trường hồi này khác xưa chứ?
– Khá lắm! Coi bộ ngon lành đó.
Ba Tân kéo anh vào căn tin. Căn nhà rộng đã được sữa sang lại, có nhạc xập xình phát ra từ hai thùng loa lớn. Một bên là quầy bán cà-phê, một bên là bán mì và phở, khói từ mấy nồi nước lèo bay lên nghi ngút, mùi phở bò ngào ngạt hấp dẫn.
Ba Bình đang lách đi trong đám đông vội đứng sững lại. Trước mắt anh là Tám Hoạnh. Ông ta trông thấy Ba Bình đột nhiên hiện ra như từ dưới đất mọc lên thì kinh hoàng đứng lặng, mắt mở to không còn thần sắc, mặt trắng bệch, hai tay run rẫy như lên cơn sốt. Bát phở nóng bỏng đang bưng trong tay từ từ nghiêng đi đổ tràn xuống vạt áo và ống quần.
Anh vội đưa tay đở lấy bát phở. Ông Tám run rẩy buông bát phở vào tay anh như một con cáo trao miếng mồi thế mạng vào tay con sư tử rồi lùi lại, lùi mãi, đến lúc nhận ra cửa ngách kề bên, ông mới ù té chạy ra vườn.
Ba Tân vội chạy theo giữ ông lại:
– Ông Tám ! Bình tỉnh. Vô ăn phở đi!
Mặt Tám Hoạnh vẫn trắng bệch, hai môi tím ngắt, vươn cổ thở dốc. Ông ngồi rũ người xuống một chiếc ghế đá, hai tay ôm trán, chống khuỷu tay xuống chiếc bàn xi măng trước mặt.
Ba Tân ngồi xuống bên cạnh vổ về cho ông đỡ sợ:
– Ông Tám yên tâm! Ba Bình đã về đây! Vẫn yên lành nguyên vẹn!
Anh cười lớn. Không ngờ tiếng cười khiến cho Tám Hoạnh trợn gáy, toát mồ hôi lạnh, miệng lắp bắp:
– Anh Ba. Xin anh tha lỗi cho tôi. . .
Ba Bình nhìn Tám Hoạnh một cách độ lượng:
– Thôi. Mọi việc đã an bài, chuyện cũ cho qua hết! Ông Tám đừng lo.
Tám Hoạnh ngước nhìn Ba Bình, trong mắt toát lên vẽ hối tiếc thành thực:
– Tôi chẳng biết lấy gì để bù đắp những tội lỗi của tôi đối với anh. Anh giết tôi đi, theo luật giang hồ, đó cũng là xứng đáng!
Ba Bình rút khăn tay ra , an ủi:
– Thôi. Ông Tám khỏi lo chuyện cũ.
Anh đưa cho Ba Tân lau những vệt nước mỡ và những cọng hành, những lát ớt còn bám trên ngực áo và ống quần ông Tám, rồi đứng dậy đi đến quầy bán vé.
Khi quay lại, anh đem tới đặt lên mặt bàn ba ly cà phê sữa nóng và một gói thuốc ba số năm.
Anh bật lữa, mời Tám Hoạnh hút thuốc.
o O o