Tám Hoạnh ngồi dựa vào đống gạch thở dốc một hồi, rồi nằm lăn ra đất tay ôm lấy chân, co rúm người lại một cách đau đớn như bị chuột rút. Lát sau ông ngồi dậy, lần thắt lưng lấy ra một chiếc lon đựng bia đã cũ, đáy lon móp bẹp, miệng lon xâu một sợi dây móc để thường xuyên đeo bên người. Tay ông run run mở cạp quần, ghé sát chiếc lon lại rồi khom người đi tiểu vào trong chiếc lon đó. Khi chiếc lon đã đầy, ông nân lên miệng uống nhấm nháp từng ngụm nhỏ một cách thận trọng.
Uống được chừng một nửa, ông lần túi lôi ra một mãnh khăn mặt rách mướp, thấm vào chổ nước tiểu còn lại trong lon, đưa lên xoa dần từ trán xuống cổ, đến ngực và hai cánh tay. Đó là phép nội ẩm ngoại đồ của Niệu liệu pháp đã từng được vài môn phái dưỡng sinh áp dụng. Sau đó ông gượng nhẹ vén quần lên, đắp nước tiểu vào, xoa bóp trên cẳng chân sưng vù và bầm tím, như cẳng chân đã chết ngâm lâu ngày dưới nước.
Ba Bình lặng người nhớ đến ông ta ngày nào oai vệ bên bàn tiệc thết đãi cấp trên. Khi ấy ông cầm chiếc khăn mặt trắng muốt, tẩm nước hoa thơm phức lau khắp từ trước mặt ra sau gay một cách khoan khoái rồi quay lại phía sau bảo các cô phục vụ đưa đồ nhậu. Những bửa say sưa nhậu nhẹt, hò hét ngả nghiêng, bia lon xếp la liệt trước mặt, uống cho đến khi chảy tràn ra mép, ướt đẩm cả ngực áo.
Con người ấy giờ đây thiểu não đến thế hay sao?
Uống nốt lon nước tiểu, Tám Hoạnh móc mãi dưới đáy túi quần mới lôi ra một gói giấy báo đen xỉn và nhàu nát. Bàn tay ông lóng ngóng xé lấy một mảnh báo và móc ra một dúm thuốc lá đen, thận trọng cuốn thành một điếu sâu kèn nhỏ xíu. Ông châm lửa hút từng hơi dài và nuốt khói vào sâu trong phổi. Hút xong đến hơi thuốc cuối cùng, tàn lửa cháy sát môi, ông mới chịu nhổ mẩu giất ra. Ông đăm đăm nhìn về phía trân trời. Ở đó dãy núi Vũng Tàu hiện ra màu xanh lam đậm, trên đỉnh núi lô nhô những giàn, những cột ăng-ten nhỏ xíu. Đôi mắt mệt mỏi và lờ đờ như luyến tiếc khát khao một quá khứ rực rở đã mất đi
Aân oán cuộc đời có vay có trả, và tạo hoá công bằng đã dành cho ông số phận một con chim gãy cánh, chỉ còn biết đau đớn nhìn bầu trời rộng rãi luyến tiếc những ngày oanh liệt.
Đột nhiên như có luồng điện phóng tới, Tám Hoạnh đứng bật dậy vội vàng vớ lấy chiếc xẻng xúc gạch. Tay ông run lẩy bẩy như người kiệt sức, nhưng vẫn cố gắng hất được những viên gạch vụn vào xe.
Từ phía xa Hải Cóc và tên đồng bọn đã hiện ra sau đám cây chà là. Tới nơi, y vất mấy con cá xuống đất đảo mắt nhìn Tám Hoạnh:
– Trời đất ơi! Trong khi bọn này trần thân kiếm cá thì mấy ông chổng mặt lên trời ngủ đã đời hả? Lao động là cải tạo thế giới mà ông nào thấy việc cũng sợ như cha chết! Chút xíu gạch mà xúc đến giờ chưa xong.
Như một làn roi quất mạnh vào Tám Hoạnh, ông nẩy người, mặt cúi gầm xuống, lóng ngóng xúc mãi mà mấy viên gạch vỡ vẫn cứ bật ra ngoài.
Hải Cóc đi kiếm củi nướng cá rồi cùng tên đồng bọn nằm dài ra bóc các miếng lườn cá ăn nhồm nhoàm. Tám Hoạnh vẫn gắng sức xúc gạch, mồ hôi chảy ròng ròng từ trán xuống má , loang lổ trên mảnh áo sờn như sơ mướp cho đến khi xe đã đầy ông ta buông xẻng nằm vật ra thở dốc.
Hải Cóc đem cái đầu cá chẻm gói trong miếng lá đưa cho Tám Hoạnh:
– Nhất thủ nhì vĩ. Phần ông cái đầu.
Tám Hoạnh nhìn miếng đầu cá, mắt ông ứa nước.
Nhưng vị cá nướng thơm ngào ngạt với những góc cạnh cháy xem đầy hấp dẫn đã làm ông phải cầm lấy nhấm nháp, mút từng mẩu thịt trong các kẽ xương. Ông ăn chậm chạp, dường như phải cố gắng lắm mới nuốt được.
Lát sau Hải Cóc đứng lên khoát tay ra lệnh. Cả bọn xúm vào làm việc.
Ông ta đã phải nếm mùi đau khổ của kiếp sống bần cùng, phải uống nước tiểu trong lon bia để chống đở bệnh tật, phải chịu đựng những đau đớn tinh thần và thể xác để còn được mở mắt nhìn đời.
Tự nhiên Ba Bình thấy mọi nổi thù oán, căm hờn của anh với ông ta dần dần nguội lạnh. Anh thấy chẳng còn điều gì cần thiết để nói với ông ta nửa.
Ba Bình trở lại tìm ông Hai và Uùt An. Tới nơi, mọi cảnh vật đã thay đổi. Khúc sông nhỏ trước nhà ông Hai đã có một con đập chắn ngang,
Anh đi mãi dọc theo bờ sông mà không tìn thấy dấu vết của căn nhà bằng lá dừa nước, nơi đã đùm bọc cưu mang anh. Cuối cùng anh cũng tìm ra được dấu tích của mảnh vườn củ cỏ hoang đã mọc đầy, nhờ có mấy cây bông gòn mà ông Hai đã trồng năm trước.
Hàng cây bông gòn đã đâm thẳng lên cao. Các cành cây khẳng khiu như những bộ xương gầy guộc và trơ trụi, treo lủng lẳng những quả bông gòn khô quắt. Một vài mảnh quả ở đâu đó tách ra để cho những sợi bông bay lả tả dưới ánh nắng vàn sậm, làm cho quang cảnh buổi chiều càng trở nên hiu quanh. Lác đác vài cánh cò trắng cô đơn bay lên rồi lại đậu xuống như còn đang cố níu lấy ánh mặt trời sắp lặn để kiếm thêm miếng ăn.