Thanh âm truyền ra thật xa, Lý Văn Tú nghe loáng thoáng có người hò reo: “Tô Phổ, Tô Phổ”. Nàng lấy làm lạ: “Sao mọi người lại kêu lên Tô Phổ, Tô Phổ là sao?”. Nàng bèn giục ngựa, chạy về phía có tiếng hò reo. Đứng sau một cây to, nàng thấy Tô Phổ đang vật nhau với Tang Tư Nhi, những người chung quanh đang hào hứng kêu la. Đột nhiên, nàng thấy bên ánh lửa khuôn mặt của A Mạn, đầy vẻ quan thiết và phấn khởi, nước mắt rưng rưng, lúc lo, lúc mừng. Lý Văn Tú từ trước tới nay chưa hề nhìn kỹ A Mạn bao giờ, nghĩ thầm: “Thì ra nàng ta yêu Tô Phổ đến thế”.
Mọi người bỗng lớn tiếng hò reo, cả Tô Phổ lẫn Tang Tư Nhi đều cùng ngã lăn ra đất. Đứng cách vòng người, Lý Văn Tú không nhìn được hai người dưới đất tình hình ra sao. Thế nhưng nghe tiếng người kêu la, nàng biết rằng Tô Phổ đang đè Tang Tư Nhi xuống. Lòng bàn tay Lý Văn Tú cũng ướt mồ hôi, chính vì không nhìn rõ hai người nên nàng lại càng hồi hộp. Đột nhiên tiếng reo hò mọi người ngưng bặt, Lý Văn Tú nghe được cả tiếng thở hổn hển của hai dũng sĩ. Chỉ thấy một người lảo đảo đứng lên, mọi người lớn tiếng hoan hô: “Tô Phổ, Tô Phổ”.
A Mạn vượt vòng người chạy vào trong nắm tay người tình. Lý Văn Tú thấy trong lòng cũng thật cao hứng, nhưng cũng thật thê lương. Nàng quay đầu ngựa, chầm chậm bước đi. Mọi người bận vây quanh Tô Phổ, chẳng ai để ý đến nàng.
Nàng không điều cương, để mặc cho con bạch mã muốn đi đâu thì đi trong sa mạc. Không biết bao lâu nàng mới thấy rằng con ngựa trắng đã đi tới tận bên bờ thảo nguyên, xa hơn nữa sẽ tiến vào sa mạc Qua Bích[4]. Nàng nhỏ nhẹ mắng nó:
– Ngươi đưa ta tới đây làm gì?
Ngay khi đó, trên sa mạc xuất hiện hai con ngựa, sau đó lại thêm hai con nữa. Dưới ánh trăng thấp thoáng, những người trên lưng ngựa đều mặc y phục Hán nhân, tay người nào cũng cầm trường đao.
Lý Văn Tú kinh hoảng: “Chẳng lẽ đây là bọn cướp người Hán?”. Còn đang ngập ngừng, một người đã kêu lên:
– Bạch mã, bạch mã.
Y giục ngựa xông tới, miệng quát tháo:
– Đứng lại, đứng lại.
Lý Văn Tú kêu lên:
– Chạy mau.
Nàng giục ngựa chạy ngược trở về, chỉ thấy tiếng chân ngựa thật gấp, đằng trước cũng có hai con ngựa chạy ra chặn lại. Lúc đó ba mặt đông nam bắc đều có địch nhân, nàng không còn kịp suy nghĩ chỉ giục ngựa theo hướng tây chạy gấp. Thế nhưng hướng tây chính là hướng đại sa mạc Qua Bích.
Khi còn nhỏ nàng đã từng nghe Tô Phổ nói tới, trong sa mạc Qua Bích có quỉ, ai đã vào trong sa mạc này thì khó mà sống sót trở về. Không, dù có thành quỉ cũng không ra được. Ai đã vào trong sa mạc Qua Bích rồi, sẽ đi thành một vòng tròn lớn, trong sa mạc cứ đi mãi không ngừng, đến khi đột nhiên thấy trên sa mạc có dấu chân. Người ta sẽ vui mừng tưởng mình cứ theo dấu chân đó tìm được đường ra, nhưng chạy một lúc rồi mới phát giác, dấu chân đó chính mình để lại. Người ta sẽ đi qua đi lại loanh quanh trong cái vòng đó. Thành ra những ai chết trong sa mạc Qua Bích biến thành quỉ cũng không xong, không lên được thiên đàng mà cứ luẩn quẩn nơi đây, nghìn năm vạn năm, suốt ngày suốt đêm chạy loanh quanh không ngừng.
Lý Văn Tú cũng đã hỏi Kế lão, sa mạc Qua Bích có thực sự ghê gớm đến thế chăng, có thật là đi vào rồi sẽ không bao giờ có thể ra được. Kế lão nghe nàng hỏi thế, đột nhiên bắp thịt trên mặt giật giật liên hồi, lộ vẻ sợ hãi phi thường, mắt lấm lét nhìn ra cửa sổ, tưởng như nhìn thấy quỉ hiện ra trước mặt. Lý Văn Tú trước nay chưa từng thấy ông già sợ hãi đến thế, không dám hỏi thêm, trong bụng chắc mẩm chuyện đó không phải giả, không chừng Kế gia gia đã gặp quỉ rồi.
Nàng cưỡi con ngựa trắng chạy như bay, trước mặt chỉ thấy cát vàng bát ngát, sa mạc kéo dài vô cùng vô tận, nghĩ đến những con quỉ lang thang nơi đây, càng lúc càng sợ thêm. Thế nhưng phía sau cường đạo đang đuổi tới, nghĩ đến cha mẹ, nghĩ đến mẹ và anh Tô Phổ, biết rằng nếu như bọn giặc cướp bắt được, thì chỉ còn nước chết mà thôi, thậm chí còn ghê gớm hơn cái chết. Thế nhưng đi vào sa mạc Qua Bích rồi, thành quỉ cũng nào đã yên. Nàng đã toan gò cương ngựa không chạy nữa, nhưng quay đầu lại thì những chiếc lều của người Cáp Tát Khắc và hàng cây xanh không còn thấy đâu, hai tên cường đạo đã bị bỏ rơi nhưng năm tên kia vẫn còn đang đuổi tới. Lý Văn Tú nghe tiếng bọn kia sung sướng kêu lên:
– Đúng là con ngựa trắng rồi, không sai vào đâu được. Bắt lấy nó, bắt lấy nó.
Mối thù nằm sâu trong lòng bao nhiêu năm nay bây giờ có dịp phát tiết, Lý Văn Tú nghĩ thầm: “Gia gia và má má bị bọn ngươi giết chết. Ta dẫn chúng bay đi vào sa mạc Qua Bích, để cùng chết một lượt. Môt mạng ta đổi năm mạng giặc cướp, còn như… còn như… sống ở trên đời có gì lạc thú nữa đâu”.
Mắt nàng rưng rưng, trong bụng không còn chần chừ gì nữa, giục ngựa nhắm hướng tây chạy thật nhanh.
Chương 2
Bọn người đó chính là người trong tiêu cuộc của Hoắc Nguyên Long và Trần Đạt Hải đã đuổi theo vợ chồng Bạch Mã Lý Tam đến đất Hồi Cương, tuy đã giết được hai người rồi, nhưng vẫn không biết được đứa bé lưu lạc nơi đâu. Bọn họ cũng biết chắc Lý Tam có được bức địa đồ Cao Xương mê cung, nhưng tìm không thấy trên người hai vợ chồng, thì nhất định phải ở trong tay đứa nhỏ. Cao Xương mê cung có chứa không biết bao nhiêu châu báu, cho nên bọn Tấn Uy tiêu cục vẫn chưa bỏ cuộc, đi lang thang khắp nơi tìm xem đứa con gái đó ở nơi nao. Thấm thoát thế mà đã mười năm, bọn họ chẳng làm ăn gì chỉ nhờ vào võ nghệ, sẵn bò cừu ngựa lạc đà của dân chúng trong vùng mà sống. Họ chỉ cần rút dao, giết người, đốt nhà, cướp của, gian dâm…
Trong mười năm đó, cả bọn không ngừng tìm kiếm đứa trẻ nhưng thảo nguyên rộng hàng nghìn dặm biết tìm nơi đâu? Chỉ sợ đứa bé đó đã chết rồi, xương cốt cũng đã mục nát nhưng ở nơi thảo nguyên này làm ăn cướp tự do tự tại, so với nghề bảo tiêu nơi trung nguyên thật sướng hơn nhiều cho nên ai về làm gì?
Thỉnh thoảng họ cũng nói chuyện về bảo tàng trong Cao Xương mê cung, về đứa con gái của Bạch Mã Lý Tam. Con bé đó nếu không chết thì cũng đã lớn nhận không ra nữa, chỉ có con ngựa trắng là không thay đổi thôi. Giống ngựa to cao toàn thân trắng như tuyết ấy không phải dễ có, từ xa cũng đã thấy ngay. Thế nhưng nếu con ngựa cũng đã chết rồi thì sao? Đời con ngựa so với người ngắn hơn nhiều. Mỗi một ngày qua đi, chẳng ai còn chút hi vọng gì nữa.
Nào ngờ thật bất ngờ lại thấy một con ngựa trắng. Không sai, chính là con bạch mã họ vẫn đi tìm.
Con ngựa lúc này tuổi cũng đã cao, cước lực không bằng khi còn trẻ, nhưng so với ngựa thường cũng vẫn nhanh hơn, đến khi trời tờ mờ sáng, đã bỏ bọn năm tên ăn cướp kia không còn thấy hình bóng đâu, tiếng chân đuổi theo cũng không còn nghe nữa. Thế nhưng Lý Văn Tú biết rằng trên sa mạc để lại dấu chân, năm tên giặc tuy nhất thời đuổi không kịp, nhưng cứ theo vết chân sẽ tới nên nàng vẫn không dám ngừng lại.
Lại chạy thêm chừng mươi trượng nữa, trời đã sáng hẳn. Qua mấy cái đồi cát, đột nhiên nơi tây bắc thấy một triền núi, trên núi cây cối xanh rì, nơi giữa sa mạc nhìn thấy thật chẳng khác nào nơi tiên cảnh chứ không phải là trần thế. Nơi sa mạc vì có mấy đồi cát nên che khuất triền núi kia, thành thử ở xa không nhìn thấy được. Lý Văn Tú trong lòng bàng hoàng: “Không lẽ đây là núi quỉ chăng? Sao giữa sa mạc lại nhiều núi thế, trước nay chưa nghe ai nói bao giờ?”. Nàng nghĩ lại tự nhủ: “Dù có là quỉ sơn cũng không sao, chính ta đang cần dụ mấy tên ác tặc vào đây”.
Bước chân bạch mã nhanh nhẹn nên chẳng mấy chốc đã đến trước ngọn núi, rồi chạy thẳng vào sơn cốc. Ngay giữa hai quả núi là một dòng suối chảy. Con ngựa trắng hí lên một tiếng vui mừng, chạy ngay đến bên bờ nước. Lý Văn Tú nhảy xuống ngựa, vốc nước rửa sạch đất cát bám trên mặt, uống thêm mấy ngụm, thấy nước suối có vị hơi ngòn ngọt, thật là mát ruột.
Đột nhiên nàng bị một vật gì cứng đè vào sau gáy, rồi nghe một giọng hầm hừ hỏi:
– Ngươi là ai? Đến đây làm gì?
Lý Văn Tú giật mình kinh hãi, định xoay người lại thì người kia lại nói tiếp:
– Cây gậy của ta để ngay vào ót nhà ngươi, chỉ cần vận kình, ngươi sẽ bị trọng thương mà chết.
Lý Văn Tú cảm thấy vật cứng kia hơi nhấn xuống, quả nhiên đầu óc choáng váng, nên không dám cử động, nghĩ thầm: “Người này nói năng được, chắc không phải là quỉ quái. Y lại còn hỏi ta đến đây làm gì, ắt là người dân xứ này, không phải giặc cướp”.
Lại có tiếng nói:
– Ta hỏi ngươi, sao không trả lời?
Lý Văn Tú đáp:
– Có bọn người xấu xa đuổi theo tôi, tôi chạy đến đây.
Người kia nói:
– Bọn người xấu xa nào?
Lý Văn Tú đáp:
– Có nhiều kẻ cướp lắm.
Người kia nói:
– Bọn cướp nào thế? Tên chúng là gì?
Lý Văn Tú đáp:
– Tôi cũng không biết nữa. Bọn họ trước kia làm nghề bảo tiêu, đến đất Hồi Cương thành ăn cướp.
Người kia hỏi:
– Thế tên ngươi là gì? Cha ngươi là ai? Sư phụ là ai?
Lý Văn Tú đáp:
– Tôi tên Lý Văn Tú, cha tôi tên Bạch Mã Lý Tam, mẹ tôi là Kim Ngân tiểu kiếm Tam Nương Tử. Tôi không có sư phụ.
Người kia “À” lên một tiếng, nói:
– Ồ, thì ra là Kin Ngân tiểu kiếm Tam Nương Tử và Bạch Mã Lý Tam. Thế cha mẹ ngươi đâu?
Lý Văn Tú đáp:
– Đều bị bọn giặc cướp đó giết cả rồi. Bọn họ còn muốn giết cả tôi nữa.
Người kia “Ôi” một tiếng nói:
– Đứng dậy đi.
Lý Văn Tú đứng lên. Người kia bảo:
– Quay lại đây.
Nàng từ từ quay lại, cái gậy đầu bịt sắt của người kia vừa rút ra khỏi ót đã đâm luôn vào cổ họng. Tuy nhiên đầu trượng không sử kình, chỉ nhứ tới. Lý Văn Tú nhìn ông ta, trong lòng thật là lạ lùng, nghe giọng khàn khàn lạnh lẽo nàng nghĩ chắc hẳn y diện mạo hung ác lắm, nào ngờ trước mặt chỉ là một ông già, thân hình gầy yếu, hình dung khô héo, mặt mày buồn so, mặc quần áo theo lối người Hán, đều đã rách bươm. Thế nhưng tóc ông ta lại quăn, trông không giống người Hán chút nào.
Lý Văn Tú nói:
– Lão bá bá, ông tên là gì? Địa phương này là đâu?
Ông già kia thấy Lý Văn Tú mặt mày xinh xắn, quả thực ngoài dự liệu, hơi ngạc nhiên, lạnh lùng đáp:
– Ta không có tên, cũng chẳng biết đây là đâu nữa.
Vừa lúc đó, từ xa có tiếng chân ngựa vọng tới. Lý Văn Tú thất kinh kêu lên:
– Bọn ăn cướp đến rồi, lão bá bá mau đi trốn đi.
Người kia đáp:
– Việc gì phải trốn?
Lý Văn Tú nói:
– Bọn cường đạo này hung ác lắm, sẽ giết ông đó.
Người kia cười khẩy nói:
– Ngươi với ta không quen, không biết sao lại lo chuyện chết sống của ta là sao?
Khi đó tiếng chân ngựa lại càng gần hơn. Lý Văn Tú không lý đến cây trượng đang để ngay cổ họng mình, thò tay ra nắm lấy tay ông già, nói:
– Lão bá bá, hai người mình cùng cưỡi con ngựa, để nữa không kịp mất.
Người kia vùng vẫy muốn giựt tay ra, nhưng không ngờ ông ta yếu quá nên không sao thoát khỏi tay của Lý Văn Tú. Lý Văn Tú lạ lùng hỏi:
– Ông bệnh ư? Để tôi đỡ ông lên ngựa.
Nói xong hai tay đỡ ngang lưng, đẩy ông già lên lưng ngựa. Người đó gầy gò nhỏ thó, tuy là đàn ông mà nhẹ hơn đứa con gái da thịt rắn chắc nhiều, ngồi trên ngựa lảo đảo lắc lư, tưởng chừng như muốn ngã. Lý Văn Tú cũng nhảy lên ngựa, ngồi ở sau lưng ông ta, giật cương chạy vụt vào trong núi.
Hai người vừa chạy đi thì nghe có tiếng năm con ngựa đã tiến vào sơn cốc, tiếng hô hoán của năm tên cướp cũng đã nghe văng vẳng. Người kia bỗng quay lại quát lớn:
– Ngươi với chúng cùng một bọn phải không? Các ngươi sắp đặt mưu kế, định lừa ta chăng?
Lý Văn Tú thấy khuôn mặt bệnh hoạn của ông ta đột nhiên trở thành hung dữ đáng sợ, mắt lộ hung quang, không khỏi rùng mình, nói:
– Không đâu, không đâu, tôi chưa hề gặp ông bao giờ, lừa ông làm chi?
Người kia gay gắt nói:
– Ngươi định đánh lừa ta dẫn ngươi đến Cao Xương mê cung…
Nói chưa dứt câu, đột nhiên im bặt.
Bốn chữ “Cao Xương mê cung” hồi nhỏ khi được cha mẹ dẫn chạy đến Hồi Cương đã từng nghe hai ông bà bàn đến mấy lần, nhưng khi đó không biết gì cũng không để ý đến. Bây giờ đã mười năm, tự nhiên lại nghe ông lão này đề cập đến, nàng nhất thời không nghĩ ra là đã từng nghe qua rồi, thản nhiên hỏi lại:
– Cao Xương mê cung? Cái đó là cái gì?
Ông lão thấy nàng thần sắc chân thành, không có vẻ gì dối trá, thanh âm liền trở lại ôn hòa nói:
– Ngươi quả thực không biết đến Cao Xương mê cung sao?