Xa Nhĩ Khố giận dữ nói:
– Không được, không được đi theo thằng giặc cướp chó má ấy, để nó giết ta đi còn hơn.
Trần Đạt Hải lấy trên tường xuống một chiếc thòng lọng buộc dê, quàng vào cổ A Mạn, cười đểu giả:
– Tốt lắm, ngươi là tù binh của ta, là nô lệ của ta. Ngươi mau mau thề đi, từ nay không bao giờ phản bội ta thì ta sẽ tha cho hai con chó Cáp Tát Khắc kia.
A Mạn nước mắt ròng ròng, nghĩ thầm nếu mình không bằng lòng, cha mình và Tô Lỗ Khắc sẽ bị y giết cả, đánh phải cất tiếng thề:
– Có Chúa Allah ở trên trời, từ nay về sau, tôi là nô lệ của chủ nhân tôi, phải nghe lời sai bảo vĩnh viễn không dám đào tẩu, không dám vi phạm mệnh lệnh của y. Nếu không chết đi sẽ đọa vào hỏa ngục, đời đời kiếp kiếp không được siêu sinh.
Trần Đạt Hải cực kỳ đắc ý cười ha hả, hôm nay đã được bức địa đồ Cao Xương mê cung lại còn thêm một thiếu nữ thật xinh đẹp, thật sướng còn hơn lên tiên. Y ở Hồi Cương đã lâu, biết rằng người Cáp Tát Khắc sùng tín đạo Hồi, nếu đã nhân danh Chúa Allah mà thề, cả đời sẽ không dám vi phạm, bèn kéo cái dây nói:
– Lại đây, lại ngồi dưới chân của chủ nhân coi.
A Mạn trong lòng hết sức đau đớn nhưng đành đi lại ngồi dưới đất. Trần Đạt Hải giơ tay vuốt tóc nàng, A Mạn nhịn không nổi khóc òa lên. Tô Phổ đứng bên không còn nhịn nổi, tung mình nhảy tới, xông vào Trần Đạt Hải. Trần Đạt Hải giơ kiếm ra, chỉ ngay vào ngực y. Tô Phổ chỉ cần tiến lên nửa bước thì ngực y sẽ bị đâm trúng ngay. A Mạn kêu lên:
– Tô Phổ, lùi lại đi.
Hai mắt Tô Phổ như muốn nảy lửa, nghiến răng bậm môi, đứng qua một bên, một lát sau đành từ từ lui lại, ngồi bệt xuống. Trần Đạt Hải lại rót một bát rượu, uống một ngụm, lấy chiếc khăn tay ra, để lên đầu gối xem kỹ. Kế lão bỗng nói:
– Làm sao ngươi biết đây là địa đồ Cao Xương mê cung?
Ông ta nói bằng tiếng Hán. Trần Đạt Hải nghĩ thầm: “Đằng nào thì tất cả chúng bay cũng không ai sống qua ngày hôm nay, có nói cho nghe cũng chẳng hề gì”. Y đi tìm mười hai năm qua, nay tâm nguyện hoàn thành, trong lòng vui sướng, không nói thì không hả dạ, dù cho Kế lão không hỏi, y cũng tự mình kể ra. Y cầm chiếc khăn lên, nói:
– Bọn ta đã biết chắc chắn không sai vào đâu, vợ chồng Lý Tam lấy được bức địa đồ Cao Xương mê cung. Hai người đó chết rồi khám trong người không thấy, ắt phải là trong tay đứa con gái họ. Tấm khăn tay này vốn của con bé họ Lý, trên lại có thêu sông núi đường đi, thì nhất định không thể nào nhầm được.
Chương 3
Y chỉ cái khăn tay nói tiếp:
– Ngươi xem đây, cái khăn này làm bằng tơ, còn sông núi sa mạc đồ hình, lại bằng len thêu vào giữa. Tơ màu vàng, len cũng màu vàng, bình thời nhìn không thấy, nhưng khi thấm máu rồi, len hút máu nhiều hơn tơ thành mới phân ra rõ rệt.
Lý Văn Tú chăm chú nhìn tấm khăn tay, quả nhiên y nói đúng, thấm máu rồi hiện rõ đồ hình, còn chỗ nào không thấm máu thì vẫn nguyên màu vàng. Năm xưa khi Tô Phổ bị chó sói cắn, máu chảy không nhiều, chiếc khăn chỉ hiện một bên góc, hôm nay bị thương vì kiếm, đồ hình hiện ra đến hơn một nửa. Bấy giờ nàng mới hiểu rằng chiếc khăn này có ẩn tàng một đại bí mật. Tô Lỗ Khắc và Xa Nhĩ Khố bị thương không lấy gì làm nặng, hai người cùng nghĩ: “Đợi ta tỉnh rượu rồi, sẽ giết tên cường đạo người Hán này”. Xa Nhĩ Khố nói:
– Ông già ơi, cho tôi uống chút nước.
Kế lão nói:
– Được.
Ông đứng lên đi lấy nước. Trần Đạt Hải sẵng giọng quát:
– Tất cả ngồi yên, không ai được động đậy.
Kế lão hừ một tiếng, lại ngồi xuống.
Trần Đạt Hải trong bụng tính toán: “Nếu bấy nhiêu người hợp lực đối phó với ta, cùng xông lên một lượt e rằng nguy mất. Nhân lúc hai tên chó chết Cáp Tát Khắc chưa tỉnh rượu, giết chúng trước là kế vạn toàn”. Y chầm chậm đi đến trước mặt Tô Lỗ Khắc, đột nhiên rút phắt trường kiếm, vung lên chém ngay xuống đầu y. Y rút kiếm chém thật là đột ngột, hành động lại nhanh như chớp, Tô Lỗ Khắc không cách nào tránh được. Tô Phổ kêu lên một tiếng, toan xông lên cứu cha, nhưng còn làm sao cho kịp?
Kiếm của Trần Đạt Hải vừa xuống đỉnh đầu Tô Lỗ Khắc bỗng nghe một tiếng vù, một vật ném ngay vào mặt, thế đi thật nhanh, y hoảng hốt không còn lo giết người mà nhảy vội sang một bên. Nghe choang một tiếng, vật đó đụng thẳng vào tường vỡ tan, thì ra là một cái chén uống trà. Y định thần, nhìn rõ ra kẻ ném chiếc chén chính là Lý Văn Tú.
Trần Đạt Hải giận lắm, thấy gã thanh niên Cáp Tát Khắc này gầy gò ốm yếu, dáng như con gái nên không để ý, nào ngờ đâu lại dám vuốt râu hùm, nên vung kiếm lên chỉ vào y chửi:
– Con chó con Cáp Tát Khắc kia, ngươi không muốn sống hả?
Lý Văn Tú từ từ cởi chiếc áo khoác Cáp Tát Khắc ra, để lộ áo chẽn kiểu người Hán, dùng tiếng Cáp Tát Khắc nói:
– Ta không phải là người Cáp Tát Khắc, ta là người Hán.
Tay nàng chỉ vào Tô Lỗ Khắc nói:
– Vị Cáp Tát Khắc bá bá này, coi tất cả người Hán ai cũng là cường đạo xấu xa. Ta muốn cho ông ta biết, người Hán chúng ta không phải ai cũng đi ăn cướp, mà cũng có người tốt.
Nhát kiếm của Trần Đạt Hải ai ai cũng thấy rõ, nếu như không có Lý Văn Tú ném chiếc chén ra cứu, Tô Lỗ Khắc ắt đã chết rồi, nên khi nghe nàng nói thế, Tô Phổ liền nói:
– Đa tạ ngươi cứu cha ta.
Thế nhưng Tô Lỗ Khắc vẫn hết sức ương ngạnh, kêu lớn:
– Ngươi là người Hán, ta không cần ngươi cứu, cứ để tên cướp kia giết ta đi là hơn.
Trần Đạt Hải tiến lên một bước, hỏi Lý Văn Tú:
– Ngươi là ai? Ngươi là người Hán, đến đây làm gì?
Lý Văn Tú cười khẩy nói:
– Ngươi không nhận ra ta nhưng ta lại nhận ra ngươi. Ăn cướp bộ lạc Cáp Tát Khắc, giết không ít người Cáp Tát Khắc, chính là bọn cường đạo người Hán chúng mày.
Nói đến đây giọng nàng không khỏi bùi ngùi, nghĩ thầm: “Nếu không phải vì bọn ăn cướp chúng mày làm bao nhiêu trò bỉ ổi, Tô Lỗ Khắc đã không hận người Hán chúng ta đến thế”. Trần Đạt Hải lớn tiếng nói:
– Là ông đấy thì mày làm gì nào?
Lý Văn Tú chỉ vào A Mạn nói:
– Nàng ta là nô lệ của ngươi, ta muốn đoạt lại, làm nô lệ cho ta.
Câu đó nói ra, thật quả ngoài dự liệu của mọi người. Trần Đạt Hải ngạc nhiên, cười ha hả nói:
– Giỏi, ngươi có tài thì cứ ra mà lấy lại.
Y vung trường kiếm lên, mũi kiềm rung động nghe u u. Lý Văn Tú quay sang nói với A Mạn:
– Ngươi nhân danh Chúa Allah, lập lời thề, bằng lòng làm nô lệ cho y. Nếu như y đánh không lại ta, ngươi bị ta đoạt lại, ngươi cũng sẽ là nô lệ cho ta, có phải không?
Người Cáp Tát Khắc đánh nhau với bộ tộc khác, kẻ bị bắt trở thành nô lệ, trong kinh Koran của Hồi giáo đã nói rõ ràng. Thân phận kẻ nô lệ không khác gì con vật, toàn do quyền chủ nhân, kể cả mua bán. Nếu như chủ nhân bị người ta chế phục, tất cả gia sản, súc vật, nô lệ cũng đều về tay chủ mới. A Mạn nghe nói thế, nghĩ thầm: “Ta đã thành nô lệ rồi, phải theo tên cường đạo này để y dày vò, chi bằng theo ngươi làm chủ cũng còn hơn”. Nghĩ thế nàng liền gật đầu:
– Đúng vậy.
Lại ngập ngừng nói tiếp:
– Ngươi đánh không lại y đâu, tên giặc cướp này võ công ghê gớm lắm.
Lý Văn Tú nói:
– Cái đó ngươi khỏi lo, ta đánh không lại thì để cho y giết chết.
Nàng vỗ hai tay một cái, nói với Trần Đạt Hải:
– Tiến lên đi.
Trần Đạt Hải lạ lùng hỏi:
– Ngươi tay không đấu với ta ư?
Lý Văn Tú nói:
– Giết những tên cường đạo như ngươi, cần gì phải dùng đến binh khí?
Trần Đạt Hải nghĩ thầm: “Ở đây ai ai đều là địch, dây dưa thêm chút nào, nguy hiểm thêm dường ấy, ngươi phách lối như thế thì càng tốt”. Y quát lên:
– Coi kiếm đây.
Y vung kiếm lên, sử chiêu Độc Xà Xuất Động, đâm luôn vào ngực Lý Văn Tú, thế mạnh lại nhanh. Kế lão kêu lên:
– Mau lui ra.
Ông ta chắc Lý Văn Tú không thể nào chống nổi, đâu ngờ nàng chỉ lắc một cái nhẹ nhàng tránh qua một bên, lướt đến bên Trần Đạt Hải, cúi chỏ trái thúc ngược về sau, đánh vào ngang hông y. Trần Đạt Hải kêu lên:
– Giỏi lắm.
Trường kiếm của y cuộn về, chém vào tay nàng. Lý Văn Tú phóng chân phải ra, đá luôn vào cổ tay y, chiêu Diệp Để Phi Yến đó là một tuyệt kỹ của Hoa Huy, Lý Văn Tú luyện mất bảy tám ngày mới thuần thục, nhẹ nhàng khéo léo thật là đắc ý. Trần Đạt Hải vội rụt tay về nhưng không còn kịp nữa, cổ tay nhói một cái đã bị đá trúng, nhưng cước lực đối phương không mạnh lắm nên kiếm của Trần Đạt Hải không bị tuột tay. Y kinh hãi gầm lên, nhảy lùi về sau một bước, còn Kế lão cũng “Ồ” một tiếng, cực kỳ ngạc nhiên.
Trần Đạt Hải xoa xoa tay, lại vung kiếm xông lên cùng Lý Văn Tú đấu tiếp. Lúc này y không còn dám coi thường chàng thanh niên gầy gò kia nữa, thấy y ra chiêu nào chiêu nấy đều vững vàng, công phu thực không phải dở, Trần Đạt Hải liền giở Thanh Mãng kiếm pháp ra, cực kỳ tàn độc, cốt sao giết được đối phương càng sớm càng tốt. Lý Văn Tú được Hoa Huy truyền thụ, thân pháp linh mẫn, chiêu thức tinh kỳ, chỉ hiềm chưa từng cùng người khác đấu bao giờ, không có chút kinh nghiệm đối địch nào, lúc đầu chỉ nhở lòng cừu hận muốn giết tên ác tặc báo thù cho cha mẹ. Đấu được một hồi, nàng bắt đầu nhìn thấy đường đi nước bước của đối thủ, trong lòng dần dần trấn tĩnh lại.
Căn lều của Kế lão vốn dĩ đã nhỏ, trong sảnh lại gầy một đống lửa lớn, Trần Lý hai người bên bếp hồng nhảy qua nhảy lại, kiếm quyền thế nào cũng chỉ cách người một hai tấc, tưởng như Trần Đạt Hải sắp sửa giết được Lý Văn Tú đến nơi. Thế nhưng chiêu nào nàng cũng có thể trả đòn, hoặc tránh né chiết giải được cả. Bọn Tô Lỗ Khắc xem mà há hốc mồm, còn Kế lão thì càng coi càng sợ hãi, thân thể không ngừng run rẩy.
Hai người càng đấu càng hăng, Trần Đạt Hải sử dụng chiêu Linh Xà Thổ Tín mũi kiếm đâm vào yết hầu Lý Văn Tú. Lý Văn Tú hụp xuống, lòn dưới kiếm tiến tới, tay trái gạt tay phải của địch, đẩy thanh kiếm hướng ra ngoài, hai tay liền chụp hai thanh kim ngân tiểu kiếm nơi hông Trần Đạt Hải, một kéo một đẩy, nghe bụp một tiếng cùng đâm luôn vào xương vai địch thủ. Trần Đạt Hải “A” lên một tiếng thảm khốc, trường kiếm tuột khỏi tay, loạng choạng lùi về phía sau, đến lúc lưng đụng vào tường đứng thở hổn hển. Hai thanh tiểu kiếm cắm vào hai vai lút đến tận cán, mũi kiếm thấu qua bên lưng, gân cốt đã đứt hết, hai tay không còn chút lực khí nào, làm sao còn lấy tay nọ rút kiếm vai kia cho nổi?
Chỉ nghe mọi người trong nhà đều lớn tiếng hò reo, la lớn:
– Đánh gục được tên cướp rồi, đánh gục được tên cướp rồi.
Đến ngay cả Tô Lỗ Khắc cũng cao giọng la lối. Tô Phổ và A Mạn ôm nhau ở một nơi, sướng không để đâu cho hết. Chỉ có Kế lão không ngừng run rẩy, hai hàm răng đập vào nhau kêu lách cách.
Lý Văn Tú biết ông ta vì quan tâm đến mình nên sợ hãi, bước tới cầm bàn tay to lớn thô kệch của ông già, ghé tai nói nhỏ vào tai:
– Kế gia gia, đừng sợ nữa, tên giặc cướp đánh không lại cháu đâu.
Bàn tay ông lạnh ngắt, càng run rẩy hơn trước. Lý Văn Tú quay đầu lại, thấy Tô Phổ đang ôm chặt A Mạn, đang vui sướng vì thắng lợi lòng bỗng chùng hẳn xuống, thấy chính mình cũng run run, bàn tay Kế lão không còn lạnh nữa, thì ra chính tay nàng cũng đã lạnh rồi. Nàng bỏ tay Kế lão ra, đi đến cầm sợi dây vẫn buộc nơi cổ A Mạn, lạnh lùng nói:
– Ngươi là nữ nô lệ của ta, bây giờ đi theo ta.
Tô Phổ và A Mạn hai người lòng cùng lạnh ngắt, bốn cánh tay đang ôm nhau lập tức lỏng ra. Họ biết đây là qui củ đời này truyền đời khác của người Cáp Tát Khắc, không còn cách nào vi phạm mệnh lệnh. Cả hai mặt đều trở nên tái nhợt. Lý Văn Tú thở dài một tiếng, cởi sợi dây nơi cổ A Mạn ra nói:
– Tô Phổ thương yêu ngươi, ta. .. ta không muốn gã phải đau lòng. Ngươi nay thuộc về Tô Phổ.
Nói xong đẩy A Mạn một cái, cho nàng ngã vào lòng Tô Phổ. Tô Phổ và A Mạn không tin ở tai mình vừa nghe, cùng hỏi lại:
– Có thực không?
Lý Văn Tú cười gượng nói:
– Dĩ nhiên là thật rồi.
Tô Phổ và A Mạn mỗi người cầm một bên tay Lý Văn Tú, lắc lắc liên tiếp nói:
– Cám ơn ngươi, cám ơn ngươi.
Hai người mừng rỡ không để ý đến cánh tay họ có thêm mấy giọt lệ từ mắt Lý Văn Tú rơi xuống. Tô Lỗ Khắc cố gắng đứng lên, bàn tay to lớn vỗ mạnh lên vai Lý Văn Tú, nói:
– Trong số người Hán, quả nhiên cũng có người tốt. Có lẽ. .. có lẽ chỉ có một mình ngươi thôi.
Xa Nhĩ Khố kêu lên:
– Lấy rượu ra, lấy rượu ra. Ta mời tất cả cùng uống, mời người Cáp Tát Khắc tốt uống rượu mà cũng mời cả người Hán tốt uống rượu, ăn mừng bắt được tên giặc cướp, ủa, tên cường đạo đâu rồi?
Mọi người cùng quay lại, không biết Trần Đạt Hải đã đi đâu mất. Thì ra mọi người đang để ý đến Lý Văn Tú và A Mạn, để cho tên cướp lẻn theo cửa sau chạy mất. Tô Lỗ Khắc giận lắm, kêu lên:
– Cả bọn mau đuổi theo.
Y vừa mở cửa ra, một trận gió ùa vào, chân y bủn rủn, thân hình lảo đảo nằm gục ngay xuống. Gió lạnh lại thêm có tuyết, thật là ác liệt, ai nấy đều cảm thấy mình chịu không nổi. A Mạn nói:
– Trong cơn gió bão này, y cũng chẳng chạy được xa đâu, có cố gắng rồi cũng chết trong gió lạnh. Đợi đến sáng gió bớt rồi, mình đi kiếm xác y trên bãi tuyết cũng không sao.
Tô Phổ gật đầu, đóng cửa lại. Tô Lỗ Khắc trừng mắt nhìn Lý Văn Tú, một hồi sau mới hỏi:
– Này ông bạn, ngươi là người Cáp Tát Khắc, phải không?
Lý Văn Tú lắc đầu:
– Không, tôi là người Hán.
Tô Lỗ Khắc nói:
– Không thể được. Ngươi là người Hán, sao lại đánh tên cướp đó cứu người Cáp Tát Khắc là sao?
Lý Văn Tú nói:
– Người Hán cũng có người xấu, người tốt. Tôi. .. tôi không phải là người xấu.
Tô Lỗ Khắc lẩm bẩm:
– Người Hán cũng có người tốt sao?
Y chầm chậm lắc đầu. Thế nhưng tính mệnh của y, tính mệnh con y, rõ ràng do thanh niên người Hán này cứu, không tin sao được?
Y một đời thù hận người Hán, nhưng đến lúc này niềm tin của y đã lung lay rồi. Y giận mình, tại sao buổi chiều lại uống rượu say, không được đấu với tên giậc cướp người Hán một trận, lại để cho người Hán cứu mạng mình? Cả đời y chuyện gì đến lúc nguy nan thì đều không đâu vào đâu, xui xẻo tận mạng. Thế nhưng hôm nay khi tên cướp vung kiếm chém xuống đầu, lại được thanh niên này cứu, chẳng phải là thật đúng lúc sao? Chẳng phải là hên lắm sao?
* *
Đến khi trời sáng, quả nhiên gió bão đã bớt dần. Tô Lỗ Khắc và Xa Nhĩ Khố liền đi ra chiêu tập tộc nhân đuổi theo tên giặc cướp người Hán. Trên mặt tuyết vết chân thật rõ ràng, huống chi y lại bị thương nặng, không thể nào chạy xa cho được. Tốt hơn hết là y đi gặp lại bọn cướp người Hán kia, mối thù mười hai năm qua, bây giờ mới trả được.
Hơn ba trăm tráng đinh người Cáp Tát Khắc liền tổ chức thành đội thứ nhất đuổi theo trước, còn các đội thứ hai, thứ ba cũng tiếp theo. Nếu chỉ bắt Trần Đạt Hải lẽ dĩ nhiên không cần đông đến thế, nhưng cốt yếu là tiêu diệt bọn cướp người Hán hoành hành nơi thảo nguyên. Tô Lỗ Khắc và Xa Nhĩ Khố đi đầu. Họ muốn những tộc nhân còn lại đi xa xa, cách chừng mươi dặm, để Trần Đạt Hải khỏi phát giác mà sẽ không dẫn đến gặp đồng bọn. Tô Phổ hôm trước bị thương, nhưng không nặng nên cũng đòi đi theo cha, còn A Mạn cũng nhất định đòi theo bố nhưng ai cũng biết, nàng không muốn phải rời xa Tô Phổ. Xa Nhĩ Khố gọi thêm hai đồ đệ cùng đi, một người là Tang Tư Nhi nhanh nhẹn, còn một thanh niên khỏe như trâu nên thiên hạ gọi y là Lạc Đà, tên thật là gì người ta không cần nhớ nữa.